Mục Lục [Ẩn]
Tội trộm cắp tài sản Điều 173 BLHS
Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người quản lí.
Hành vi phạm tội cấu thành tội trộm cắp tài sản khi thoả mãn một trong các dấu hiệu sau:
- Tài sản trộm cắp trị giá từ 2 triệu đồng trở lên;
- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản; Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản hoặc về tội được quy định tại Điều 290 và chưa được xoá án tích;
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
- Tài sản là di vật, cổ vật;
Luật sư Trịnh Văn Dũng, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn như sau
Hành vi chiếm đoạt của tội trộm cắp tài sản có hai dấu hiệu phân biệt với hành vi chiếm đoạt của những tội khác. Đó là dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có người quản lí.
- Dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có người quản lí.
Lén lút là dấu hiệu có nội dung trái ngược với dấu hiệu công khai ở các tội đã trình bày. Dấu hiệu này vừa chỉ đặc điểm khách quan của hành vi chiếm đoạt tài sản vừa chỉ ý thức chủ quan của người thực hiện hành vi đó. Hành vi chiếm đoạt tài sản có đặc điểm khách quan là lén lút và ý thức chủ quan của người thực hiện cũng là lén lút.
Hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình thức mà hình thức đó có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra.
Ý thức chủ quan của người phạm tội là lén lút nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người phạm tội có ý thức che giấu hành vi đang thực hiện của mình. Việc che giấu này chỉ đòi hỏi đối với chủ tài sản. Đối với những người khác, ý thức chủ quan của người trộm cắp tài sản có thể vẫn là công khai. Nhưng trong thực tế, ý thức chủ quan của người phạm tội trong phần lớn các trường hợp cũng là lén lút, che giấu đối với người khác. Ý thức lén lút, che giấu này có thể là:
- Che giấu toàn bộ hành vi phạm tội như che giấu đối với chủ tài sản hoặc
- Chỉ che giấu tính chất phi pháp của hành vi.
Ví dụ: Lợi dụng thủ kho đi vắng, mở cửa kho chuyển hàng lên ô tô một cách đàng hoàng như là có việc xuất hàng bình thường. Trong trường hợp này người phạm tội không che giấu hành vi thực tế mà chỉ che giấu tính chất phi pháp của hành vi. Những người không phải là chủ tài sản vẫn biết sự việc xảy ra nhưng không biết đó là hành vi trộm cắp tài sản.
b) Tài sản là đối tượng của tội trộm cắp tài sản là tài sản đang có người quản lí.
Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản ở tội trộm cắp tài sản phải là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người quản lí. Hành vi lấy tài sản của mình hoặc đang do mình quản lí cũng như hành vi lấy tài sản không có hoặc chưa có người quản lí đều không phải là hành vi trộm cắp tài sản. Tài sản được coi là đang có người quản lí là tài sản sau:
- Tài sản đang ở trong sự chiếm hữu của người khác, nghĩa là đang nằm trong sự chi phối về mặt thực tế của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm.
Thông thường việc xác định tài sản còn nằm trong sự chiếm hữu của chủ tài sản hoặc của người có trách nhiệm hay không, không phức tạp, trừ một số trường hợp tài sản là những vật nuôi có thể tự động di chuyển vị trí ngoài ý muốn của chủ nuôi như trâu, bò, ngựa v.v..
- Tài sản đang còn trong khu vực quản lí, bảo quản của chủ tài sản:
Đây là trường hợp tài sản cụ thể, tuy đã thoát li khỏi sự chi phối về mặt thực tế của chủ tài sản hoặc của người có trách nhiệm nhưng vẫn nằm trong phạm vi thuộc khu vực bảo quản. Ví dụ: Tài sản đã bị lấy ra khỏi nhà kho cụ thể nhưng còn được giấu bên trong hàng rào bảo vệ của khu kho. Xét về khách quan, chỉ những tài sản thuộc hai loại nêu trên mới có thể là đối tượng của tội trộm cắp tài sản. Xét về chủ quan, người phạm tội trộm cắp tài sản khi thực hiện hành vi phạm tội cũng biết tài sản chiếm đoạt có đặc điểm đang có chủ quản lí. Nếu người phạm tội thực sự có sự sai lầm cho rằng tài sản không có chủ quản lí thì hành vi không cấu thành tội trộm cắp tài sản. Để đánh giá sự sai lầm của người phạm tội là có căn cứ hay không, cần xem xét trước hết đặc điểm của tài sản cũng như vị trí và cách để tài sản đó.
- Dấu hiệu chiếm đoạt ở tội trộm cắp tài sản được thực tiễn xét xử từ trước đến nay hiểu là chiếm đoạt được.
Với cách hiểu như vậy, tội trộm cắp tài sản chỉ coi là hoàn thành khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa, đã làm chủ được tài sản hay chưa phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Thực tiễn xét xử đã chấp nhận hướng giải quyết cụ thể về những trường hợp chiếm đoạt được ở tội trộm cắp tài sản như sau:
- Nếu vật chiếm đoạt gọn nhỏ thì coi như đã chiếm đoạt được khi người phạm tội đã giấu được tài sản trong người.
- Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được khi đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo quản.
- Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu vực bảo quản riêng thì coi là đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản khỏi vị trí ban đầu.
Người có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội biết đó là thông tin giả nhưng vẫn đưa ra và mong muốn người khác tin đó là sự thật.
Ngoài ra tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn một số dấu hiệu khác về mặt chủ thể, khách thể theo quy định của pháp luật.
Là người từ đủ 16 tuổi trở lên. Có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo luật định.
Tội trộm cắp tài sản xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản của chủ sở hữu hoặc người được giao quản lý tài sản, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.

Điều luật quy định 04 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung.
Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- (Phạm tội) có tổ chức;
- (Phạm tội) có tính chất chuyên nghiệp;
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng;
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm: Thủ đoạn xảo quyệt là những thủ đoạn tinh vi hoặc gian dối cao giúp người phạm tội dễ dàng tiếp cận và dễ dàng chiếm đoạt được tài sản như dùng các phương tiện kĩ thuật tinh vi để thực hiện hành vi phạm tội.... Thủ đoạn nguy hiểm là những thủ đoạn có tính chất huỷ hoại như tháo trộm các chi tiết quan trọng của thiết bị máy móc, dỡ mái kho vào lấy hàng trong mùa mưa bão...
- Hành hung để tẩu thoát;
-Tài sản là bảo vật quốc gia:
- (Phạm tội trong trường hợp) tái phạm nguy hiểm.
Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau: - Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng;
- Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh;
Khung hình phạt tăng nặng thứ ba có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500 triệu đồng trở lên;
- Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Tội cuớp tài sản Điều 168 BLHS
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản Điều 169 BLHS
Tội cưỡng đoạt tài sản Điều 170 BLHS
Tội cướp giật tài sản Điều 171 BLHS
Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản Điều 172 BLHS
Tội trộm cắp tài sản Điều 173 BLHS
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Điều 174 BLHS
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Điều 175 BLHS
Tội chiếm giữ trái phép tài sản Điều 176 BLHS
Tội sử dụng trái phép tài sản Điều 177 BLHS
Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản Điều 178 BLHS
Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Điều 180 BLHS