Mục Lục [Ẩn]
Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội?
Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội được hiểu là hành vi trốn đóng bảo hiểm của người sử dụng lao động có nghĩa vụ đóng các loại bảo hiểm cho người lao động hoặc chủ sử dụng lao động có hành vi gian dối, bằng thủ đoạn khác để không đóng hoặc đóng không đầy đủ bảo hiểm cho người lao động mà theo quy định họ thuộc đối tượng phải tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Luật sư Trịnh Văn Dũng, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp như sau:
- Hành vi khách quan của tội phạm được quy định trước hết là hành vi không đóng hoặc không đóng đầy đủ theo quy định bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động bằng thủ đoạn gian dối hoặc bằng thủ đoạn khác.
- Hành vi này chỉ bị coi là tội phạm khi thời gian trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là 06 tháng trở lên, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm và:
- Số tiền trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp từ 50 triệu đồng trở lên;
- Số người lao động bị trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp từ 10 người trở lên.
Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động xâm phạm chế độ quản lí nhà nước đối với hoạt động đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động.
Chủ thể của hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động chỉ là người sử dụng lao động.
Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp… doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh các thể, tổ hợp tác, tổ chức khách và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động.
Riêng người sử dụng lao động thuộc diện phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động thuộc đơn vị mình khi sử dụng từ 10 lao động trở lên. Như vậy, chủ thể của hành vi trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo quy định là pháp nhân hoặc cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.

Điều 216, BLHS năm 2015 quy định Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp có thể bị xử phạt đến 07 năm tù.
Phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng năm đến 03 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Trốn đóng bảo hiểm từ 300 triệu đồng đến dưới 01 tỉ đồng;
- Trốn đóng bảo hiểm cho từ 50 người đến dưới 200 người;
- Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 Điều 216 BLHS.
Phạt tiền từ 500 triệu đồng đến 01 tỉ đồng hoặc bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:
- Trốn đóng bảo hiểm 01 tỉ đồng trở lên;
- Trốn đóng bảo hiểm cho 200 người trở lên;
- Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 2 Điều 216 BLHS.
Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Xem thêm: