Mục Lục [Ẩn]
Tội tham ô tài sản là như thế nào
"Là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp… họ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý hoặc được giao quản lí"
Luật sư Trịnh Văn Dũng, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội xin đưa ra nội dung tư vấn như sau:
Hành vi khách quan của tội phạm được quy định là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lí. Người phạm tội đã lợi dụng trách nhiệm quản lí tài sản được giao chiếm đoạt tài sản mình đang quản lí. Thủ đoạn lợi dụng trách nhiệm quản lí tài sản có thể khác nhau nhưng các thủ đoạn đó xét về thực chất đều là sử dụng chức vụ, quyền hạn được giao như điều kiện để có thể dễ dàng biến tài sản được giao thành tài sản của mình. Ví dụ: Thủ kho lấy tài sản trong kho về bán lấy tiền chi tiêu cho cá nhân hay thủ trưởng đơn vị dùng quyền quyết định của mình đưa tài sản cơ quan về gia đình. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, người phạm tội có thể có những thủ đoạn gian dối như lập chứng từ giả, tẩy xoá, sửa chữa sổ sách, tài liệu, giấy tờ... nhưng những thủ đoạn này không được quy định là dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm.
Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lí chỉ được coi là cấu thành tội tham ô tài sản nếu hành vi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Tài sản chiếm đoạt trị giá từ 02 triệu đồng trở lên;
- Chủ thể đã bị xử lí kỉ luật về hành vi này; hoặc
- Chủ thể đã bị kết án về một trong các tội được quy định từ Điều 353 đến Điều 359 BLHS và chưa được xoá án tích.
Tội tham ô tài sản xâm hại trực tiếp đến sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội trong công tác quản lý tài sản và xâm phạm quan hệ sở hữu tài sản của cơ quan nhà nước, tổ chức doanh nghiệp…
Tội phạm đòi hỏi chủ thể phải là chủ thể đặc biệt:
Chủ thể của tội tham ô tài sản phải là người có chức vụ, quyền hạn quản lí tài sản. Những người không có chức vụ, quyền hạn này chỉ có thể là đồng phạm tham ô với vai trò là người xúi giục, tổ chức hay giúp sức.
Chủ thể của tội tham ô, nếu nói một cách khái quát phải là những người có trách nhiệm quản lí tài sản. Trách nhiệm này có thể có được do có chức vụ hoặc do đảm nhiệm những chức trách công tác nhất định. Trách nhiệm quản lí tài sản có thể là trách nhiệm quản lí về mọi mặt như trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, hoặc có thể chỉ là quản lí trên thực tế như trách nhiệm giữ, bảo quản của thủ kho, thủ quỹ hoặc quản lí trên văn bản giấy tờ như kế toán.
Trách nhiệm quản lí tài sản cần được phân biệt với trách nhiệm bảo vệ đơn thuần của những người làm công việc bảo vệ ở cơ quan nhà nước, doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Những người này hoàn toàn không liên quan đến tài sản về mặt quản lí mà chỉ liên quan đến tài sản về nghĩa vụ trông coi, bảo vệ. Họ không thể là chủ thể của tội tham ô tài sản, trừ trường hợp cá biệt. Đó là trường hợp tuy chỉ là bảo vệ nhưng do đặc điểm của tài sản được bảo vệ, họ có khả năng tiếp cận trực tiếp với tài sản nên họ cũng được coi như người tạm thời quản lí tài sản khi người quản lí chính thức vắng mặt. Ví dụ: Bảo vệ bãi gỗ, bãi than, sân nông sản đang phơi... Trong trường hợp này họ có thể trở thành chủ thể của tội tham ô tài sản. Trách nhiệm quản lí tài sản của những người nói trên có được là do chức năng công tác được cơ quan giao cho một cách chính thức. Những chức năng công tác là:
- Đảm nhiệm những chức vụ nhất định như thủ trưởng cơ quan, chánh văn phòng, trưởng phòng tài vụ;
- Đảm nhiệm những công tác nghiệp vụ về quản lí kinh tế, tài chính như thủ kho, thủ quỹ, kế toán;
- Đảm nhiệm những công việc có tính độc lập. Đó là những công việc tạo ra cho người được giao (tuy không có trách nhiệm quản lí tài sản) mối quan hệ cũng như trách nhiệm với khối lượng tài sản nhất định trong khoảng thời gian nhất định. Ví dụ: Người lái xe được cơ quan giao một mình vận chuyển chuyến hàng, không có người áp tải.
Những người có chức vụ, quyền hạn trên đây được hiểu là những người làm việc trong lĩnh vực công (Nhà nước). Theo khoản 6 Điều 353 BLHS, người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng được coi có thể là chủ thể của tội tham ô tài sản.
.jpg)
Điều 353, BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017 quy định Tội tham ô tài sản có thể bị xử phạt đến chung thân hoặc tử hình.
Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
đ) Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn;
e) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng;
g) Ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, tổ chức.
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động.
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
2.6. Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này.