Mục Lục [Ẩn]
Tội hiếp dâm Điều 141 BLHS
Tội hiếp dâm được quy định là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân trái ý muốn của họ.
Luật sư Trịnh Văn Dũng, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội xin đưa ra nội dung tư vấn Tội hiếp dâm như sau:
Hành vi khách quan của tội này được quy định là hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân trái với ý muốn của họ bằng thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được hoặc bằng thủ đoạn khác.
- Cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân. Trong đó, hành vi giao cấu là dạng hành vi thông thường của hành vi quan hệ tình dục (hành vi đưa bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ).
Trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành, hành vi khách quan của tội hiếp dâm chỉ giới hạn là hành vi giao cấu. BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi hành vi khách quan của tội phạm này. Theo đó, các hành vi quan hệ tình dục khác cũng thuộc hành vi khách quan của tội hiếp dâm.
- Dấu hiệu hành vi khách quan của tội hiếp dâm chỉ đòi hỏi hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác được thực hiện mà không đòi hỏi hành vi này phải kết thúc về mặt sinh lí.
- Hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác được thực hiện trái với ý muốn của nạn nhân: Nạn nhân không chấp nhận hoặc không có ý muốn của nạn nhân vì họ đang trong tình trạng không thể biểu lộ được ý chí.
Các hành vi trên đây được thực hiện bằng một trong những thủ đoạn sau:
Đây là thủ đoạn dùng sức mạnh vật chất đè bẹp sự kháng cự của nạn nhân chống lại hành vi của người phạm tội như xô ngã, vật, giữ, bóp cổ nạn nhân....
Đây là thủ đoạn làm ý chí của nạn nhân bị tê liệt không chống lại hành vi của người phạm tội như dọa giết, dọa gây thương tích cho nạn nhân.
Đây là thủ đoạn lợi dụng nạn nhân vì lí do nào đó không thể chống lại hành vi của người phạm tội như lợi dụng nạn nhân đang trong tình trạng ốm đau...
Đây là những thủ đoạn giúp cho người phạm tội có thể thực hiện được hành vi của mình. Những thủ đoạn đó, theo thực tiễn xét xử có thể là thủ đoạn lợi dụng nạn nhân đang trong tình trạng không có khả năng biểu lộ ý chí đúng đăn được. Ví dụ: Lợi dụng nạn nhân đang , tình trạng bị say rượu nặng hoặc đang trong tình trạng bị bệnh tâm thần...
Tình trạng này có thể không do nhưng cũng có thể do chính người phạm tội chủ động tạo ra. Ví dụ: Người phạm tội chủ động cho nạn nhân uống rượu say để sau đó thực hiện hành vi giao cấu hay hành vi quan hệ tình dục với họ.
- Là người từ đủ là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS.
- Chủ thể đặc biệt là nam giới: Điều luật không mô tả dấu hiệu đặc biệt của chủ thể của tội hiếp dâm nhưng theo quan niệm truyền thống và thực tiễn xét xử trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành thì chủ thể của tội này được xác định là chủ thể đặc biệt.
- Dấu hiệu đặc biệt ở đây là dấu hiệu về giới tính. Chủ thể của tội hiếp dâm chỉ có thể là nam giới. Nữ giới chỉ có thể tham gia trong vụ đồng phạm hiếp dâm với vai trò là người xúi giục, người giúp sức hay người tổ chức. Với việc mở rộng phạm vi hành vi khách quan của tội hiếp dâm cũng như để phù hợp với quy định của điều luật, quan niệm hiện nay về chủ thể của tội hiếp dâm có thể được thay đổi.
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục của mình là trái ý muốn nạn nhân nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó bằng một trong những thủ đoạn nói trên.
1.4. Khách thể của tội phạm:
Tội hiếp dâm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.

Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức: Đây là trường hợp đồng phạm hiếp dâm ở hình thức có tổ chức.
b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh. Đây là trường hợp phạm tội mà giữa người phạm tội và nạn nhân có quan hệ đặc biệt với nhau. Trong đó, người phạm tội là người có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho nạn nhân. Trách nhiệm này có thể phát sinh từ những cơ sở pháp lí khác nhau.
c) Nhiều người hiếp một người.Đây là trường hợp đồng phạm hiếp dâm trong đó có nhiều người có hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác với cùng một nạn nhân. Hiếp dâm có tổ chức và nhiều người hiếp một người tuy đều là đồng phạm nhưng một trường hợp đòi hỏi là đồng phạm có tổ chức còn một trường hợp đòi hỏi phải có nhiều người cùng là người thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Có tính chất loạn luân. Đây là trường hợp giữa người phạm tội và nạn nhân có quan hệ cùng dòng máu về trực hệ hoặc có quan hệ là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha
g) Làm nạn nhân có thai;
h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
i) Tái phạm nguy hiểm.
a) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. Trường hợp hiếp dâm làm nạn nhân chết là trường hợp hiếp dâm đã gây ra hậu quả nạn nhân chết và lỗi của người phạm tội đối với hậu quả này là lỗi vô ý. Nếu người phạm tội có lỗi cố ý đối với hậu quả chết người thì hành vi phạm tội của họ cấu thành tội giết người (Điều 123 BLHS) và tội hiếp dâm. Trường hợp hiếp dâm làm nạn nhân tự sát là trường hợp nạn nhân do bị hiếp dâm nên đã có hành vi tự tước đoạt tính mạng của mình. Giữa việc bị hiếp dâm và việc tự sát có mối quan hệ nhân quả với nhau
Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.