Mục Lục [Ẩn]
Tội cưỡng dâm Điều 143 BLHS
Tội cưỡng dâm là hành vi dùng các thủ đoạn để khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách, túng quẫn phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục (bao gồm quan hệ tình dục khác)
Luật sư Trịnh Văn Dũng xin đưa ra nội dung tư vấn như sau:
a)Về hành vi.
Dùng các thủ đoạn, không sử dụng vũ lực. Cần phân biệt tội cưỡng dâm với tội hiếp dâm. Hành vi uy hiếp tinh thần, đe dọa đánh đập hoặc dọa giết nạn nhân để thực hiện hành vi giao cấu khác với dấu hiệu cấu thành của tội phạm này. Khi đó, nạn nhân ý thức được rằng nếu mình không đồng ý cho giao cấu thì hành vi đó sẽ lập tức diễn ra, trong trường hợp này người đó phạm tội hiếp dâm. Đối với tội hiếp dâm, nạn nhân sẽ có chống cự, chống trả bằng sức.
Thực hiện bằng các thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc cụ thể trong từng hoàn cảnh. Khi đó, người bị hại đang lệ thuộc về quyền, lợi ích hoặc trong tình trạng quẫn bách. Họ không được tự do, đảm bảo về mặt tư tưởng và suy nghĩ. Họ phải miễn cưỡng chấp nhận giao cấu với người phạm tội. Họ không hoàn toàn tự nguyện giao cấu mà đang bị khống chế, bị tác động về mặt tư tưởng.
b) Có hành vi giao cấu được thực hiện.
Nạn nhân là người đang lệ thuộc vào người phạm tội hoặc đang ở trong tình trạng quẫn bách. Họ không được đảm bảo các quyền lợi, được tự do lựa chọn khi chịu tác động tâm lý từ phía người phạm tội. Hành vi cưỡng dâm nêu trên xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự và sức khoẻ, tính mạng của người khác.
Tội xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về tình dục của con người. Trong thực tế, chủ yếu nạn nhân của tội phạm này là phụ nữ. Do đó cũng xâm phạm danh dự, phẩm giá của phụ nữ.
Chủ thể của tội cưỡng dâm là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Ở đây không phân biệt người phạm tội là trai hay gái. Tuy nhiên các vụ việc phạm tội trên thực tế thì người phạm tội chủ yếu là nam giới.
1.5. Dấu hiệu khác.
- Người bị hại lệ thuộc với người phạm tội.
- Người bị hại có thể bị lệ thuộc về nhiều mặt từ vật chất đến tinh thần. Khi đó, người phạm tội phải có uy thế nhất định để khống chế tư tưởng của người phạm tội như:
Về vật chất (được nuôi dưỡng, được trợ giúp về điều kiện sinh sống)
Về xã hội (giữa giáo viên với học sinh, giữa bác sĩ với bệnh nhân)
Về tín ngưỡng (giữa tín đồ với người có chức sắc tôn giáo)
Về quan hệ gia đình (như giữa anh chị em cùng cha khác mẹ)
Về công tác (giữa thủ trưởng với nhân viên; cấp trên cấp dưới)
Người bị hại đang ở trong tình trạng quẫn bách:
Người bị hại đang gặp những khó khăn rất lớn về kinh tế, đứng giữa ranh giới sự sống cái chết trong bệnh tật,… Do đó họ cần có ngay sự giúp đỡ. Họ cũng không thể nhờ cậy ai khác, chỉ có thể phụ thuộc vào người phạm Tội.
Ví dụ: Bác sĩ đặt điều kiện với bệnh nhân đang bị bệnh hiểm nghèo là cho giao cấu mới chữa trị cho người đó và nạn nhân (bệnh nhân) đã chấp nhận điều kiện đó để được chữa trị.
- Người bị hại vẫn còn khả năng kháng cự, tuy nhiên họ đã không kháng cự. Họ tự nguyện cho giao cấu một cách miễn cưỡng theo điều kiện mà người phạm Tội đã đưa ra. Tội phạm hoàn thành từ lúc người bị hại giao cấu với người phạm tội.
- Người bị hại là người từ đủ mười sáu tuổi trở lên: Quy định này nhằm thể hiện người bị hại đã có khả năng suy nghĩ độc lập. Họ thực sự bị phụ thuộc, hoặc rơi vào tình trạng túng quẫn. Đối với người chưa đủ 16 tuổi, chia ra làm hai trường hợp phạm tội: Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo Điều 144. Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo Điều 142.

Tùy vào độ tuổi của bị hại mà người có hành vi cưỡng dâm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cưỡng dâm hoặc cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, cụ thể như sau:
Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
- Nhiều người cưỡng dâm một người;
- Phạm Tội 02 lần trở lên;
- Đối với 02 người trở lên;
- Có tính chất loạn luân;
- Làm nạn nhân có thai;
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%;
- Tái phạm nguy hiểm.
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
- Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.
Người phạm Tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.