Mục Lục [Ẩn]
Tội chống người thi hành công vụ là như thế nào?
Chống người thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật
Luật sư Trịnh Văn Dũng, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội xin đưa ra nội dung tư vấn như sau:
Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm Hành vi khách quan của tội chống người thi hành công vụ được quy định là hành vi cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật. Để thực hiện được một trong hai hành vi này, chủ thể có thể sử dụng một hoặc các thủ đoạn đã được quy định trong điều luật. Cụ thể là:
Dùng sức mạnh vật chất tấn công, hành hung như đánh, trói... để ngăn cản, cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc làm cho người thi hành công vụ sợ hãi, bị khuất phục mà buộc phải thực hiện hành vi trái pháp luật. Ở đây cần chú ý, dấu hiệu dùng vũ lực không đòi hỏi người phạm tội phải gây thương tích hoặc làm tổn hại đáng kể sức khoẻ của người thi hành công vụ. Trường hợp dùng vũ lực dẫn đến hậu quả người thi hành công vụ bị chết, bị thương tích hoặc tổn hại đáng kể đến sức khoẻ thì tuỳ trường hợp, hành vi còn cấu thành tội giết người (Điều 123) hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 134 BLHS) với dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng “giết người đang thi hành công vụ” hoặc “đối với người thi hành công vụ”.)
Thủ đoạn có tính uy hiếp tinh thần, có thể làm cho người thi hành công vụ sợ hãi không dám thực hiện công vụ được giao hoặc phải thực hiện hành vi trái pháp luật. Người phạm tội có thể đe dọa dùng vũ lực dưới các hình thức khác nhau như dọa giết, dọa gây thương tích... Việc đe dọa dùng vũ lực có thể sử dụng công cụ, phương tiện khác nhau như súng, dao, côn gỗ...
Những thủ đoạn (ngoài hai thủ đoạn nêu trên) giúp cho người phạm tội có thể thực hiện hành vi cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật như lăng nhục, bôi nhọ danh dự, vu khống... như hắt mắm tôm vào cán bộ thi hành án. Điều luật chỉ đòi hỏi người phạm tội thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ - cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật mà không đòi hỏi phải cản trở được việc thi hành công vụ hoặc đã ép buộc được người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật.
Nạn nhân của tội phạm này là người đang thi hành công vụ. Đó là “ người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội, thực hiện chức năng, nghiệp vụ của mình và cũng có thể là những công dân được huy động làm nghiệp vụ (như: tuần tra, canh gác...) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội”.
Lỗi của chủ thể được quy định là lỗi cố ý. Người phạm tội biết tính chất cản trở, ép buộc của hành vi mà mình thực hiện cũng như biết đối tượng mà mình cản trở, cưỡng ép là người thi hành công vụ.
Xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của những người đang thi hành, thông qua đó xâm phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thực thi công vụ, nhiệm vụ.
Chú ý: Người đang thi hành công vụ ở đây phải được hiểu là người đang thi hành một công vụ hợp pháp, mọi trình tự, thủ tục, thi hành phải bảo đảm đúng pháp luật. Nếu người thi hành công vụ là đang thực hiện nhiệm vụ, công vụ trái pháp luật mà bị xâm phạm thì hành vi của người có hành vi xâm phạm không phải là hành vi chống người thi hành công vụ.
Là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của bộ luật hình sự.

Điều 330, BLHS năm 2015, sửa đổi năm 2017 quy định Tội chống người thi hành công vụ có thể bị xử phạt đến 07 năm tù.
Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với người có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật.
2.2. Khung 2:
Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội;
d) Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên;
đ) Tái phạm nguy hiểm