Mục Lục [Ẩn]
Tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật Điều 157 BLHS
Bắt, giữ người trái pháp luật là hành vi ngăn cản, tước đoạt sự tự do dịch chuyển thân thể của người khác trái với quy định của pháp luật.
Luật sư Trịnh Văn Dũng, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội xin đưa ra nội dung tư vấn như sau:
Là hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật được hiểu là hành vi của một người, hoặc một nhóm người không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật ngăn cản, tước đoạt sự tự do hoạt động, dịch chuyển thân thể của người khác trái với quy định của pháp luật về căn cứ, thẩm quyền và trình tự, thủ tục. Hoặc hành vi này cũng có thể được thực hiện bởi người có thẩm quyền...
Trên thực tế, hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật diễn ra rất đa dạng, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau. Nếu phân loại theo đối tượng thì có 2 dạng hành vi như sau:
a) Hành vi thứ nhất:
Người không có thẩm quyền, không có chức năng hoạt động Nhà nước, không có chức vụ quyền hạn và cũng không thuộc trường hợp được phép bắt người nhưng vì lý do cá nhân đã có hành vi bắt, giữ, giam người trái phép. Cụ thể gồm các hành vi:
- Bắt người khác trái pháp luật:
Theo quy định của pháp luật, bất kỳ người nào cũng có quyền bắt người phạm Tội quả tang (Điều 111 BLTTHS năm 2015), người đang bị truy nã (khoản 1 Điều 112 BLTHS năm 2015) và đưa người bị bắt đến trụ sở cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc UBND gần nhất. Ngoài 2 trường hợp này, người nào thực hiện hành vi khống chế, bắt người khác với bất kỳ mục đích nào đều là hành vi bắt người trái pháp luật. Việc khống chế có thể sử dụng đến vũ lực như trói, còng tay, khóa tay… hoặc đe doạ dùng vũ lực (thường là buộc người bị bắt phải đến nơi mà người phạm Tội đã chọn).
-Giữ người khác trái pháp luật:
Được thể hiện ở hành vi không cho người khác di chuyển hoặc đi đâu vượt ra ngoài sự kiểm soát của mình trong một khoảng thời gian nhất định. Mục đích giữ người trái pháp luật không phải là dấu hiệu bắt buộc. Ví dụ: giữ con nợ trên xe ô tô, đe dọa buộc chỉ đường để chở đến nhà gia đình để đòi tiền.
-Giam người khác trái pháp luật:
Được thể hiện ở hành vi cách ly người khác trái pháp luật ở một địa điểm và trong một khoảng thời gian nhất định. Ví dụ: Chủ nợ nhốt con nợ trong phòng khách sạn 12 tiếng để ép con nợ viết giấy vay nợ...
Lưu ý: Thủ đoạn thực hiện hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật nói trên có thể là hành vi dùng vũ lực, dùng sức mạnh về vật chất như dùng công cụ đánh, trói, nhốt vào thùng xe, nhà kho… hoặc đe dọa dùng vũ lực, sử dụng bạo lực về tinh thần như đe dọa bắn, đánh nếu không để cho bắt, giữ, giam…Tuy nhiên, các thủ đoạn này không có ý nghĩa đối với việc định tội danh.
b) Hành vi thứ hai:
Người tuy có thẩm quyền, có chức năng hoạt động Nhà nước nhưng lại tiến hành bắt, giữ hoặc giam người không đúng căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật (Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, Luật xử lý vi phạm hành chính…).
Pháp luật hiện hành chỉ cho phép người có thẩm quyền thực hiện việc bắt, tạm giữ, tạm giam người trong các trường hợp sau đây:
- Về bắt người: Phải thuộc trường hợp bắt người phạm Tội quả tang (Điều 111 BLTTHS năm 2015) hoặc bắt người đang bị truy nã (Khoản 1 Điều 112 BLTHS năm 2015) hoặc bắt bị can, bị cáo để tạm giam (theo lệnh, quyết định của người, cơ quan có thẩm quyền để tạm giam họ trong một thời hạn nhất định, Điều 113 BLTTHS năm 2015). Việc bắt người trong 3 trường hợp này đều phải lập biên bản.
-Về tạm giữ người bị bắt: Gồm tạm giữ người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm Tội quả tang; người phạm Tội tự thú, đầu thú hoặc bị bắt theo quyết định truy nã (Điều 113 BLTTHS năm 2015) hoặc tạm giữ người theo thủ tục hành chính, áp dụng khi cần ngăn chặn ngay hành vi vi phạm hành chính hay để xác định tình trạng nghiện ma túy. (Luật xử lý vi phạm hành chính và Điều 16 Nghị định 142/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021)
-Về tạm giam: Chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội khi có Quyết định, lệnh của người có thẩm quyền (Điều 119 BLTTHS năm 2015).
Chú ý: Nếu người có chức vụ quyền hạn trong việc bắt, giữ hoặc giam người nhưng lại thực hiện không đúng theo quy định của pháp luật về bắt, giữ, giam người và hành vi đó không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 377 Bộ Luật hình sự thì đều thuộc hành vi khách quan của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. Nói cách khác, hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật chỉ được coi là hành vi khách quan của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật khi hành vi này không thỏa mãn dấu hiệu của các hành vi được quy định tại khoản 1, Điều 377 BLHS.
- Người phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật có thể thực hiện cả ba hành vi:
Bắt, giữ, giam người, nhưng cũng chỉ có thể thực hiện một hoặc trong hai, trong ba hành vi đó. Do các hành vi này có cùng một tính chất nên nhà làm luật quy định chung trong cùng một điều luật với tên Tội danh gồm nhiều hành vi khác nhau, tương tự như “Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm” ( Điều 191 BLHS); “Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự” (Điều 304 BLHS)... Đối với cùng một người bị xâm hại, nếu người phạm tội thực hiện đầy đủ cả 3 hành vi thì xử lý về một Tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật (nêu đầy đủ cả 3 hành vi) và chỉ áp dụng một hình phạt đối với họ (không thuộc trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều tội); nếu người phạm tội chỉ thực hiện hành vi bắt, thì xử lý về Tội bắt người trái pháp luật; nếu thực hiện hai hành vi bắt, giữ thì xử lý về Tội bắt, giữ người trái pháp luật.
- Cấu thành cơ bản của tội phạm không quy định hành vi bắt, giữ người trong khoảng thời gian bao lâu thì mới bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn xử lý đối với hành vi này, cần cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi gây ra để đánh giá, xem xét xử lý trách nhiệm hình sự. Nếu việc bắt, giữ trái pháp luật xảy ra trong thời gian quá ngắn, do nhầm lẫn (như bắt nhầm người phạm tội quả tang…) và không có hậu quả đáng kể xảy ra thì không xử lý hình sự mà xử lý bằng pháp luật khác đối với người thực hiện hành vi phạm này. Như vậy, cũng hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 8 của BLHS, những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và bị xử lý bằng các biện pháp khác.
- Hậu quả của hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trước hết là gây ra việc một người bị bắt, bị giữ hoặc bị giam trái pháp luật. Ngoài ra, hành vi này có thể gây ra những hậu quả khác cho người bị hại hoặc cho gia đình người bị hại (do bị bắt, giam oan mà người bị bắt uất ức tự sát; bị tra tấn gây thương tích; làm cho gia đình bị hại thiệt hại nặng nề về kinh tế do mất nguồn thu nhập chính...). Tuy nhiên hậu quả của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc, nếu có thì đây là dấu hiệu để định khung hình phạt.
- Tội phạm được xem là hoàn thành kể từ khi người phạm tội có hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. Nếu người phạm tội có ý định bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật đã chuẩn bị phương tiện, địa điểm, lực lượng để thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt được người bị hại thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt.
- Hành vi bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật theo quy định tại Điều 377 BLHS là trường hợp đặc biệt, áp dụng đối với chủ thể là người có chức vụ, quyền hạn so với trường hợp quy định tại điều luật này.
Là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS. Ngoài ra tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật còn có chủ thể đặc biệt là người giữ chức vụ, quyền hạn trong quá trình thực thi công vụ có hành vi bắt giữ, giam người trái pháp luật.

Điều 157, BLHS quy định Tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật là một trong những Tội danh xâm phạm đến quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân với mức xử lý tối đa lên đến 12 năm tù.
Phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, trừ trường hợp phạm Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153) và Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt, giữ, giam người trái pháp luật (Điều 377)
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người đang thi hành công vụ;
d) Phạm Tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
g) Làm cho người bị bắt, giữ, giam hoặc gia đình họ lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn;
h) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
a) Làm người bị bắt, giữ, giam chết hoặc tự sát;
b) Tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm của người bị bắt, giữ, giam;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bị bắt, giữ, giam mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
Tội bắt giữ hoặc giam người trái pháp luật Điều 157 BLHS