Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của một người có các quyền và nghĩa vụ dân sự, là tiền đề cho việc tham gia vào các quan hệ dân sự. Năng lực này không thể bị hạn chế bởi tuổi tác, giới tính, địa vị xã hội hay bất kỳ lý do nào khác, ngoại trừ những trường hợp do pháp luật quy định.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi sinh ra và chấm dứt khi cá nhân đó qua đời.
1. Thời điểm phát sinh và chấm dứt năng lực hành vi dân sự?
Phát sinh: từ thời điểm cá nhân sinh ra.
Ngoài ra, pháp luật còn bảo vệ quyền lợi của thai nhi trong một số quan hệ nhất định (Điều 613, Điều 660 BLDS 2015 về thừa kế: thai nhi sinh ra và còn sống thì được hưởng thừa kế như một người đã sinh ra trước).
Chấm dứt: khi cá nhân chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết.
1.1 Một người đầy đủ năng lực pháp luật dân sự thì có những quyền, nghĩa vụ gì?
Nội dung này được thể hiện qua các quyền và nghĩa vụ cơ bản của cá nhân trong lĩnh vực dân sự:
a) Quyền nhân thân (gắn liền với cá nhân, không thể chuyển giao):
b). Quyền về tài sản:
c) Nghĩa vụ dân sự:
1.2. Đặc điểm năng lực hành vi dân sự
- Thuộc tính pháp lý phổ biến, bẩm sinh: mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật dân sự, không phụ thuộc tuổi tác, giới tính, dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội.
- Không thể bị hạn chế: Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân không được tùy tiện tước bỏ hoặc hạn chế năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, trừ trường hợp do luật định (ví dụ: một số quyền có thể bị hạn chế khi cá nhân đang chấp hành hình phạt tù hoặc biện pháp xử lý hành chính).
1.3 Sự khác nhau giữa năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự?
- Năng lực pháp luật dân sự: khả năng có quyền, nghĩa vụ (có từ khi sinh ra).
- Năng lực hành vi dân sự: khả năng tự mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ bằng hành vi của bản thân (phụ thuộc vào độ tuổi, trạng thái tâm thần).
1.4. Năng lực hành vi dân sự có ý nghĩa như thế nào?
Là cơ sở pháp lý để xác định tư cách chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự.
Bảo đảm cho mọi cá nhân được thừa nhận là chủ thể bình đẳng trước pháp luật dân sự.
Phân biệt rõ với năng lực hành vi dân sự, từ đó giúp xác định ai có thể tự mình tham gia quan hệ dân sự, ai cần thông qua người đại diện.
Gắn liền với việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp 2013.
1.5. Căn cứ pháp lý:
Điều 16, Bộ luật Dân sự 2015.
Điều 16. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
1. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
2. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
3. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết.”
2. Người có đủ năng lực hành vi dân sự khi nào?
Người có đủ năng lực hành vi dân sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên và không thuộc trường hợp mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người thành niên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để tự mình thực hiện các giao dịch, tham gia các quan hệ pháp luật và chịu trách nhiệm về hành vi của mình, trừ một số trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định.
2.1 Căn cứ xác định năng lực hành vi dân sự đầy đủ:
Người thành niên từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự. Như mọi cá nhân, người thành niên có năng lực pháp luật dân sự từ khi sinh ra cho đến khi chết.
a) Đầy đủ năng lực hành vi dân sự
Người thành niên có khả năng tự mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự bằng hành vi của mình (Điều 20 BLDS 2015). Họ phải tự chịu trách nhiệm về hành vi pháp lý mà mình thực hiện.
Điều 20. Người thành niên
1. Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên.
2. Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại các điều 22, 23 và 24 của Bộ luật này.
b) Không bị mất năng lực hành vi dân sự Điều này bao gồm những người mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình
c) Không bị hạn chế năng lực hành vi hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 22 – 24 BLDS 2015). Các trường hợp bị hạn chế do nghiện ma túy hoặc các chất kích thích khác cũng sẽ không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự
1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Điều 23. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
2. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Điều 24. Hạn chế năng lực hành vi dân sự
1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
3. Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.”
2.2. Người có năng lực hành vi dân sự có những quyền gì?
Quan hệ pháp luật dân sự: Người thành niên là nhóm chủ thể có đầy đủ năng lực hành vi, có thể tham gia tất cả các quan hệ pháp luật dân sự (giao kết hợp đồng, sở hữu tài sản, để lại thừa kế, khởi kiện, tự bảo vệ quyền lợi…).
Quan hệ pháp luật hôn nhân – gia đình: Người thành niên có quyền kết hôn khi đáp ứng độ tuổi luật định (nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ 18 tuổi – Điều 8 Luật HNGĐ 2014).
Quan hệ pháp luật lao động: Người thành niên có quyền tham gia quan hệ lao động mà không bị giới hạn như lao động chưa thành niên.
Quan hệ pháp luật hình sự: Người từ đủ 18 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm (trừ trường hợp luật có quy định khác).
Việc làm sáng tỏ các khía cạnh của năng lực hành vi dân sự của cá nhân từ đó xác định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của chủ thể tham gia trong các quan hệ pháp luật, giao dịch dân sự đồng thời là cơ sở để pháp luật xác định mức độ tự do hành vi, trách nhiệm và sự độc lập của cá nhân. Góp phần bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
2.3. Căn cứ pháp lý: Điều 20 Bộ luật Dân sự 2015.