Khi nào bị can bị cáo bị tạm giam?
Khi nào bị can bị cáo được trả tự do; Các trường hợp bị can bị cáo được trả tự do; tạm giam là gì; ai là người bị tạm giam; các trường hợp bị tạm giam; trường hợp không bị tạm giam; thời hạn tạm giam theo quy định pháp luật hiện hành;Thời hạn tạm giam đối với hoạt động điều tra bổ sung;
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn được quy định tại điều 109, 173, 174, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2025 được áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có căn cứ xác định rằng nếu không tạm giam người này có thể gây ra khó khăn trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử hoặc có khả năng người này tiếp tục có hành vi phạm tội. Việc tạm giam được áp dụng cho các trường hợp trên nhằm mục đích đảm bảo an ninh trật tự cũng như đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được diễn ra tốt nhất.
Mục Lục [Ẩn]
Tại Điều 109 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2025 quy định các biện pháp ngăn chặn trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự. Để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc khi có căn cứ cho rằng người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có hành vi tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo việc thi hành bản án hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền của mình được áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Các trường hợp bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Như vậy, tạm giam là một biện pháp ngăn chặn được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự. Áp dụng đối với người bị buộc tội khi có căn cứ cho rằng nếu không tạm giam người này có thể gây ra các khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án hoặc có khả năng tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.
Căn cứ khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 quy định: Người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bao gồm bị can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ.
Như vậy, theo quy định pháp luật thi hành tạm giữ, tạm giam thì Tạm giam được thực hiện rộng hơn không chỉ để nhằm giải quyết tội phạm hay người đang bị buộc tội có thể thực hiện hành vi phạm tội khác mà còn áp dụng đối với người đã bị kết án mà bản án chưa có hiệu lực hoặc đang chờ thực hiện thi hành án hoặc cũng áp dụng thực hiện việc dẫn độ.
Khi nào được áp dụng hình phạt tạm giam; những đối tượng nào không được áp dụng hình phạt tạm giam;
Căn cứ theo Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về trường hợp bị tam giam như sau:
(1) Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
(2) Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
(3) Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
(1) Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
b) Tiếp tục phạm tội;
c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
(2) Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
(3) Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết.
Theo khoản 1, khoản 2 Điều 173 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về thời hạn tạm giam để điều tra, cụ thể:
- Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Như vậy thời hạn tạm giam được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người bị tạm giam phải được trả tự do. Trường hợp xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Theo quy định tại Điều 174. Thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại
"1. Trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 235 của Bộ luật này thì thời hạn điều tra tiếp không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và không quá 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra. Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 01 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 03 tháng. Thẩm quyền gia hạn điều tra đối với từng loại tội phạm theo quy định tại khoản 5 Điều 172 của Bộ luật này.
2. Trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 02 tháng; nếu do Tòa án trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 01 tháng.
Viện kiểm sát chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hai lần. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra bổ sung.
3. Trường hợp vụ án được trả lại để điều tra lại thì thời hạn điều tra và gia hạn điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 172 của Bộ luật này. Thời hạn điều tra được tính từ khi Cơ quan điều tra nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.
4. Khi phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này.
Trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật này cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra, điều tra bổ sung không được quá thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam trong trường hợp vụ án được điều tra lại thực hiện theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật này”.
Như vậy, đối với với trường hợp điều tra bổ sung thì thời gian tạm giam lại tương ứng với thời gian điều tra bổ sung. Còn đối với điều tra lại thì thời gian tạm giam được tính lại từ đầu. Việc quy định như vậy dẫn đến việ tạm giam có thể lặp lại nhiều lần mà pháp luật chưa có giới hạn, chưa nói đến cơ quan công tố và tòa án gia hạn thời hạn tạm giam trong quá trình truy tố và xét xử của mình.
Bị can, bị cáo được trả tự do ngay tại phiên tòa nếu không có tội, được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt, hoặc bị xử phạt bằng hình phạt không phải là tù giam. Ngoài ra, họ cũng được trả tự do nếu thời hạn tù cho bằng hoặc ngắn hơn thời gian đã bị tạm giam, hoặc được hưởng án treo và không bị tạm giam vì tội khác. Bị can, bị cáo cũng được trả tự do khi hết thời hạn tạm giam mà không có quyết định gia hạn.
1. Trả tự do tại phiên tòa
2. Các trường hợp khác:
Nếu bạn có bất cứ thắc mắc nào hoặc muốn được Luật sư tư vấn pháp lý xin vui lòng liên hệ thông tin phía dưới để được hỗ trợ tốt nhất.
|
Mọi thông tin cần tư vấn, Quý khách vui lòng liên hệ
|