Tham vấn bởi Luật sư Trịnh Văn Dũng; Chuyên viên pháp lý Lê Nhật Hoàn
Trong hệ thống pháp luật nước ta, giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt nhằm xem xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án nhưng bị Kháng nghị từ người có thẩm quyền được quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015. Thủ tục này không chỉ nhằm đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong hoạt động tư pháp mà còn giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan. Bài viết này mình sẽ phân tích về Giám đốc thẩm vụ án hình sự là gì? Điều kiện để kháng nghị Giám đốc thẩm vụ án hình sự? Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm? Thời hạn giám đốc thẩm vụ án hình sự? Mời quý bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây để hiểu chi tiết hơn về Thủ tục Giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự.

Trong thực tiễn xét xử tại các phiên tòa hình sự việc thi hành án bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực là đương nhiên được pháp luật đảm bảo. Tuy nhiên, không phải trong bất cứ trường hợp nào, bản án quyết định của Tòa án cũng hàon toàn đúng đắn, khách quan và phù hợp quy định của pháp luật. Khi nhận thấy và có căn cứ hợp pháp các cá nhân hoàn toàn có quyền gửi đơn đề nghị xem xét lại bản án, quyết định khi việc xét xử, phán quyết chưa đúng, chưa phù hợp quy định pháp luật.
Hiểu đơn giản thì Giám đốc thẩm là một thủ tục tố tụng nhằm tiến hành việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án. Xét lại để xác minh toàn bộ quá trình giải quyết, toàn bộ hồ sơ vụ án đã phù hợp với pháp luật và các tình tiết trong hồ sơ hay chưa để nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan có thẩm quyền liên quan. Việc tiến hành xét lại này có thể vì những lí do trong toàn bộ quá trình xét xử, giải quyết vụ án mà có sự vi phạm pháp luật hoặc có căn cứ cho rằng kết luận thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án đã đưa ra không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.
Căn cứ Điều 370 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về tính chất của giám đốc thẩm như sau:
“Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.”
Căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Điều 371 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, cụ thể nhu sau:
“Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ:
1. Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;
3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.”
Như vậy, khi cho rằng có sự vi phạm pháp luật trong quá trình tố tụng thì người có thẩm quyền có thể tiến hành kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định trên. Khi đó, bản án, quyết định của Tòa án dù đã có hiệu lực pháp luật mà đáp ứng một trong các điều kiện, căn cứ trên thì có thể bị kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm.
Theo Điều 373 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi 2025, quy định Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như sau:
“1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Tòa án quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực.
3. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân khu vực trong phạm vi tỉnh, thành phố.”
Từ quy định trên bạn có thể thấy: Khi có căn cứ cho rằng có yếu tố vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, thì các bên liên quan có quyền thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị được quy định trên. Hình thức thông báo có thể thông qua trực tiếp hoặc thông báo bằng văn bản để đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Pháp luật cũng quy định nếu bên thông báo là cá nhân thì phải kí tên hoặc điểm chỉ vào văn bản thông báo, nếu là cơ quan, tổ chức thì văn bản thông báo phải có chữ kí và con dấu của Người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó. Nội dung chính văn bản thông báo phải tuân thủ theo quy định của pháp luật tại Điều 374 Bộ luật này.
Người có thẩm quyền kháng nghị tiến hành ra quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định của Tòa án khi xét thấy các cứ chứng minh việc vi phạm pháp luật là đúng, phù hợp với quy định của pháp luật.
Về thời hạn kháng nghị được chia theo hai trường hợp theo hướng có lợi hoặc không có lợi cho người bị kết án. Nếu việc tiến hành kháng nghị mà theo hướng có lợi cho người bị kết án thì có thể được tiến hành trong bất kì thời gian nào nhằm bảo về quyền lợi cho người bị kết án một cách kịp thời nhất, ngay cả trường hợp người bị kết án đã mất thì vẫn có thể tiến hành kháng nghị để minh oan cho người đó. Nếu không có lợi cho người bị kết án thì việc kháng nghị được tiến hành trong vòng 01 năm tính từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật (Điều 379 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ).
Sau quá trình kiểm tra xác minh, phiên tòa giám đốc thẩm sẽ được tiến hành bởi Tòa án nhân dân có thẩm quyền, trong thời hạn 04 tháng kể từ ngày có quyết định kháng nghị kèm theo toàn hồ sơ và các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án.
Nếu bạn có bất cứ thắc mắc nào hoặc muốn được Luật sư tư vấn pháp lý xin vui lòng liên hệ thông tin phía dưới để được hỗ trợ tốt nhất.
XEM THÊM:
Khi nào bản án hình sự bị tái thẩm?
Mục Lục [Ẩn]
|
Mọi thông tin cần tư vấn, Quý khách vui lòng liên hệ
|